13-XÁC ĐỊNH CÁC PHÁP TU TẬP
LỜI PHẬT
DẠY:
1- Nhất
tâm là định.
2- Bốn
niệm xứ là định tưởng.
3- Bốn
tinh cần là định tư cụ.
4- Sự
luyện tập, sự tu tập, sự tái tu tập của những pháp ấy là tu tập định ở đây vậy.
5- Thở
vô và thở ra là thân hành.
6- Tầm
tứ là khẩu hành.
7- Tưởng
thọ là tâm hành.
(Tăng Nhất
A Hàm tập 3)
CHÚ GIẢI:
Trên đây là
sự xác định rất rõ ràng của đức Phật trong các pháp môn tu hành về thiền định
phải tu pháp nào và tu tập như thế nào, nhất là đức Phật chỉ cho chúng ta thấy
phải dùng thân hành nào trong thân để nhập các loại định và nhập định nào làm
chủ được sanh tử luân hồi.
Vậy, muốn thấu
hiểu rõ thì chúng ta phải thông hiểu từng câu, từng lời dạy của đức Phật như dưới
đây:
1- Nhất
tâm là gì? Nhất
tâm là “tâm ly dục ly ác pháp”, chứ không phải nhất tâm
là tâm “không vọng tưởng, tâm không niệm thiện niệm ác”. Tâm
ly dục ly ác pháp là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ, cho nên đức Phật
gọi là “Bất Động Tâm Định”. Do vậy nên câu này đức Phật
dạy: “Nhất tâm là định”. Ở đây các bạn phải khéo hiểu,
nếu hiểu không đúng nghĩa thì các bạn sẽ hiểu theo kiểu kinh sách Đại Thừa và
Thiền Tông. Hiểu theo kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông thì dù các bạn có tu
muôn ngàn kiếp cũng chẳng bao giờ có giải thoát.
2- Bốn
Niệm Xứ là gì? Bốn Niệm Xứ là một phương pháp tu tập
trên bốn chỗ của thân ngũ uẩn là: thân, thọ, tâm và pháp để đạt được ý thức ly
dục ly bất thiện pháp, tức là ý thức không phóng dật (không khởi niệm).
Sao lại gọi: “Bốn
Niệm Xứ là định tưởng”? Khi mới bước chân vào tu tập Bốn Niệm Xứ thì phải tu
tập 16 loại tưởng. Nhờ tu tập 16 loại tưởng này nên tâm mới
sinh ra nhàm chán các pháp thế gian vì thấu suốt lý các pháp là vô thường, khổ,
vô ngã, bất tịnh, uế trược, do qui luật nhân quả duyên hợp tạo thành chẳng có
gì là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Do ý nghĩa này mà Bốn Niệm Xứ là Định
Tưởng. Các bạn nên hiểu: “Định Tưởng chứ không phải Tưởng Định”.
3- Bốn
Tinh Cần là gì? Bốn
Tinh Cần là một tên khác của Tứ Chánh Cần. Tứ Chánh Cần là một phương pháp tu tập
dùng ý thức ngăn ác và diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp. Một
pháp môn dùng cho mọi người tu tập lúc mới bắt đầu theo Đạo Phật. Do tu tập Tứ
Chánh Cần mà mọi người mới giữ gìn giới luật trọn vẹn. Do tu tập Tứ Chánh Cần
mà giới luật không bao giờ vi phạm. Do tu tập Tứ Chánh Cần mà tâm hồn mới được
thanh thản, an lạc và vô sự. Do tu tập Tứ Chánh Cần mà cuộc sống gia đình mới
được an vui và hạnh phúc. Do tu tập Tứ Chánh Cần mà không còn nạn trộm cắp cướp
giựt giết người, làm mất trật tự, an ninh. Do tu tập Tứ Chánh Cần mà các tệ nạn
xã hội không còn nữa, tạo nên một xã hội có trật tự, một đất nước phồn vinh, thịnh
trị, v.v..
Sao lại gọi
Bốn Tinh Cần là Định Tư Cụ? Bốn tinh cần là pháp môn tu tập làm cho giới luật
thanh tịnh như trên chúng tôi đã nói. Vì giới luật thanh tịnh là tâm thanh tịnh;
tâm thanh tịnh là tâm định, nên đức Phật dạy: “Giới sinh định”. Muốn
có thiền định thì chỉ cần tu tập giới luật cho thanh tịnh. Giới luật thanh tịnh
tức là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh là tâm ly dục ly ác pháp; tâm ly dục ly
ác pháp thì ngay đó là thiền định, nên đức Phật dạy: “ly dục ly ác
pháp nhập Sơ Thiền”.
Đọc đến đây
các bạn thấy rất rõ thiền định của Đạo Phật là thiền định từ giới luật sinh ra.
Nó không giống bất cứ một loại thiền định nào của Đại Thừa và Thiền Tông. Phải
không các bạn?
Nếu các bạn
tu tập thiền định mà loại thiền định đó không lấy giới luật làm tiêu chuẩn, sống
không đúng Phạm hạnh, thường phạm giới, phá giới mà cứ bảo đó là thiền định của
Phật giáo thì các bạn đừng có tin.
Khi biết rõ
pháp môn thiền định của Phật do từ giới luật sinh ra thì không ai còn đưa ra một
pháp môn nào khác để lừa đảo chúng ta được nữa. Vì lý do này nên lời dạy trong
bài kinh nói: “Bốn Tinh Cần Là Định Tư Cụ”. Đúng vậy.
Pháp môn tu tập thiền định của Phật giáo Nguyên Thủy chỉ có Định Tư Cụ (Tứ
Chánh Cần), ngoài Tứ Chánh Cần ra thì không còn pháp môn nào khác nữa để tu tập
thiền định đúng chánh pháp. Nếu có pháp môn nào khác nữa để tu tập thiền định
thì chúng ta phải biết đó không phải là pháp môn của Phật giáo, mà chính là
pháp môn của ngoại đạo Bà La Môn.
4- Sự luyện
tập, sự tu tập, sự tái tu tập của những pháp ấy là tu tập định ở đây vậy.
Chúng ta hãy
lắng nghe lời đức Phật xác định những pháp môn đức Phật đã dạy ở trên đây là những
pháp môn tu tập thiền định của Đạo Phật. Vì vậy, quán niệm hơi thở có đúng là
pháp môn tu tập thiền định của Đạo Phật không? Không đúng đâu các bạn ạ, nó chỉ
là một phương pháp tu tập tỉnh thức mà thôi, chứ nó không phải thiền định. Tu
hơi thở không thể nhập định được, tu hơi thở là để an trú thân tâm. An trú thân
tâm trong hơi thở là để đẩy lùi các chướng ngại pháp.
Quý Sư, Thầy
hiện giờ dạy người tu tập thiền định bằng quán niệm hơi thở, quán phình xệp cơ
bụng (Minh Sát Tuệ), quán niệm Phật nhất tâm (Tịnh Độ), quán tri vọng (biết vọng
liền buông), niệm chú bắt ấn (Mật Tông), tham công án, tham thoại đầu (Thiền
Tông), v.v.. Các bạn hãy xem các pháp trên đây có phải từ giới luật mà thành định
không? Nếu không phải từ giới luật sinh ra định thì những pháp thiền định này
là thiền tưởng, thiền của Bà La Môn, thiền của các nhà học giả nặn ra.
Tóm lại, muốn
tu tập thiền định của Phật giáo là phải tu tập giới luật. Tu tập giới luật là
có giải thoát ngay liền; tu tập giới luật là tu tập đạo đức làm Người, làm
Thánh; tu tập giới luật là xây dựng cho mình một cảnh giới Cực lạc, Thiên đàng
ngay tại thế gian; tu tập giới luật là tu tập giúp cho thân tâm luôn luôn thanh
thản, an lạc và vô sự; tu tập giới luật là tu tập tâm bất động trước các pháp
và các cảm thọ, một trạng thái Niết bàn thật sự hiện tiền mà mọi người không ai
ngờ được.
5-
Thở vô và thở ra là thân hành. Tại sao hơi thở ra, vô gọi là thân hành?
Hơi thở ra,
vô là sự hoạt động tự động của thân để tạo thành sức sống của cơ thể để tiếp nhận
dưỡng khí (gió) bên ngoài. Có thở mới có sống, hết thở là chết. Hơi thở là sự
hoạt động của thân cũng giống như sự hoạt động đưa tay, đưa chân hay là chúng
ta bước đi kinh hành. Về thân chúng ta có thể chia ra làm hai phần hoạt động:
a) Hoạt động
bên trong thân gồm có: hơi thở, đó là sự hoạt động về hô hấp (phổi). Mạch máu
khắp châu thân đang chuyển tải máu đi, máu về. Đó là sự hoạt động về tuần hoàn
(tim) gan, bao tử, ruột bộ óc và các tế bào đều đang hoạt động trong thân. Tất
cả những sự hoạt động đó gọi là thân hành nội.
b) Thân hành
ngoại gồm có: đi, đứng, nằm, ngồi, co tay, duỗi chân, nói nín, cúi, gật, v.v..
Cho nên, sử
dụng thân hành nội cũng như thân hành ngoại chỉ tu tập cho tâm được tỉnh thức
mà thôi, chứ nó không phải thiền định gì cả. Nếu lấy hơi thở nhập định được thì
đi kinh hành cũng nhập định được, hay làm tất cả các công việc cũng đều nhập định
được sao? Điều này không thể xảy ra được. Do hiểu rõ điều này nên chúng tôi khẳng
định: Đại Thừa, Thiền Tông, Mật Tông, Tịnh Độ Tông và tất cả các loại thiền định
ức chế tâm đều không nhập chánh định được, chỉ nhập vào định tưởng, định điên
khùng rối loạn thần kinh.
Tóm lại, hơi
thở ra, vô chỉ là một thân hành trong nhiều thân hành. Vì trong thân có rất nhiều
hành động mà Đạo Phật lấy đó làm niệm để tu tập tỉnh thức gọi là Thân Hành Niệm.
Người tu nương vào thân hành niệm là mục đích để tu tập tỉnh giác mà thôi. Đừng
nghĩ rằng: quán niệm hơi thở theo Sổ Tức Quán của Đại Thừa hay Lục Diệu Pháp
môn của Ngài Trí Khải Đại Sư (sổ, tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh), tu tập như vậy
là để nhập định. Đó là quan niệm sai lầm, không đúng pháp môn của Phật dạy.
Sao các Tổ tự
đặt ra nhiều pháp môn quá vậy để làm gì trong khi mọi người tu tập chỉ tìm cầu
sự thoát khổ: sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi, chứ không cầu thần
thông, không cầu vãng sanh Cực lạc, không cầu Phật tánh, bản thể chân như vô
phân biệt? Chính vì các Tổ sản sinh thần quyền và thêu dệt thần thông huyễn hoặc
quá nhiều. Các Tổ dựa vào hơi thở Yoga sinh ra lắm thiền định, khiến người tu
hành điên đảo chẳng biết tu pháp nào, họ như lọt vào rừng hơi thở.
6- Tầm,
tứ là khẩu hành.
Có nghĩa là gì? Câu này đức Phật xác định để chúng ta nhận xét khi nhập Nhị Thiền
để thấy và hiểu biết cho rõ ràng.
Khi nhập Nhị
Thiền tầm tứ diệt. Tầm tứ là ý thức, thuộc trong nhóm sáu thức: mắt, tai, mũi,
miệng, thân, ý. Khi tầm tứ diệt thì mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý đều diệt. Sao
ở đây đức Phật dạy: “Tầm tứ là khẩu hành”? Khẩu hành là sự
hoạt động của miệng. Sự hoạt động của miệng có hai phần:
a) Ăn
b) Nói
Khi nhập Nhị
Thiền thì miệng không còn ăn và nói chuyện. Nếu còn ăn và nói chuyện là không
nhập Nhị Thiền. Hiển nhiên đúng như vậy các bạn ạ!
Cho nên câu
nói: “Tầm, tứ là khẩu hành” là để chúng ta biết rõ khi
nhập Nhị Thiền là không nói chuyện, không ăn uống được, có nghĩa là miệng không
còn hoạt động. Do từ chỗ Tầm tứ diệt là khẩu hành diệt ta suy ra và biết ngay tầm
tứ diệt là sáu thức diệt, có nghĩa là khi nhập Nhị Thiền thì người nhập định
không phải giống như cây đá vô tri, vô giác, không phải giống như thây ma người
chết. Khi nhập Nhị Thiền đức Phật còn xác định rõ ràng: “Định sinh hỷ
lạc”. Vậy, cái gì còn biết hỷ lạc khi sáu thức bị ngưng hoạt động. Cái
biết trong Nhị Thiền là cái biết của tưởng thức. Tưởng thức biết là nhờ thức uẩn
hoạt động.
Thưa các bạn!
Khi các bạn ngủ thì sáu thức không hoạt động nên bạn mới có chiêm bao. Trong
chiêm bao cái gì biết, nghe, thấy và cảm nhận, các bạn có biết không? Đó là tưởng
thức các bạn ạ!
Nhập Nhị Thiền,
nói cho dễ hiểu là nhập vào thế giới chiêm bao. Thế giới chiêm bao là thế giới
tưởng. Cho nên, nhập Nhị Thiền là nhập vào trạng thái của tưởng căn (nhóm tế
bào tưởng) do tưởng uẩn hoạt động.
Tóm lại “Tầm,
tứ là khẩu hành”, là chỉ cho trạng thái Nhị Thiền cần phải diệt.
7- Tưởng,
thọ là tâm hành. Vậy
tưởng, thọ là tâm hành, là gì? Tưởng là tưởng uẩn; thọ là thọ uẩn. Khi tưởng uẩn
và thọ uẩn còn hoạt động thì không bao giờ nhập diệt thọ tưởng định được. Ở đây
đức Phật nêu: “Tưởng, thọ là tâm hành” để nhắc khéo cho
chúng ta biết khi nhập Tam Thiền thì phải ly tưởng dục (ly hỷ trú xả nhập Tam
Thiền), nếu còn một chút xíu tưởng hỷ dục thì không bao giờ nhập Tam Thiền được.
Khi nhập Tứ Thiền thì phải xả hết cảm thọ, còn một chút cảm thọ nơi thân tâm
thì không nhập được Tứ Thiền.
Ở đây, chúng
tôi xin nhắc lại các bạn cần lưu ý: Khi muốn nhập Sơ Thiền thì các bạn cần ly dục,
ly ác pháp. Muốn ly dục ly ác pháp thì các bạn cần phải tịnh chỉ
ngôn ngữ (lời nói) tức là sống độc cư trầm lặng một mình mà tâm
không phóng dật thì mới có thể nhập được Sơ Thiền. Khi tâm không phóng dật là
tâm bất động. Tâm bất động là tâm có đầy đủ bảy năng lực Giác Chi, do đó mới nhập
được Sơ Thiền.
Khi muốn nhập
Nhị Thiền thì các bạn phải diệt tầm tứ. Muốn diệt tầm tứ thì các bạn phải tịnh
chỉ khẩu hành. Muốn tịnh chỉ khẩu hành thì phải có đủ bảy năng lực Giác Chi, nếu
không có đủ bảy năng lực Giác Chi thì không bao giờ tịnh chỉ khẩu hành được. Và
như vậy, các bạn cũng không bao giờ nhập Nhị Thiền được.
Khi muốn nhập
Tam Thiền thì các bạn phải ly các trạng thái hỷ tưởng. Ly các trạng thái hỷ tưởng
tức là tịnh chỉ mộng tưởng, có nghĩa là người nhập Tam Thiền thì thoát ra khỏi
thế giới mộng tưởng. Muốn thoát ra khỏi thế giới mộng tưởng thì phải dùng bảy
năng lực của Giác Chi, nếu không có bảy năng lực Giác Chi thì không bao giờ ly
hỷ được.
Khi muốn nhập
Tứ Thiền thì phải xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh tức là xả thọ. Muốn xả thọ
thì phải tịnh chỉ hơi thở ra, hơi thở vô. Muốn tịnh chỉ hơi thở ra, hơi thở vô
thì phải có đủ bảy năng lực của Giác Chi, nếu không có đủ bảy năng lực Giác Chi
thì khó mà nhập được Tứ Thiền.
Khi muốn nhập
Diệt Thọ Tưởng Định thì phải có đủ bảy năng lực Giác Chi mới nhập Diệt Thọ Tưởng,
nếu không có bảy năng lực Giác Chi thì không bao giờ nhập Diệt Thọ Tưởng được.
Tóm lại, bảy
lời dạy trên đây của đức Phật là chỉ thẳng mục đích tu tập từ con người phàm
phu để trở thành những bậc Thánh nhân A La Hán vô lậu, làm chủ sự sống chết
hoàn toàn và chấm dứt luân hồi, không còn trở lui trạng thái này nữa.
(Trích
sách Những lời gốc Phật dạy – Tập 1, NXB Tôn Giáo – 2011, trang 75-86)

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét