1015-DỰNG LẠI CHÁNH PHÁP CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO
Sư Minh
Hưng vấn đạo
Kính bạch
Trưởng lão Hòa thượng! Con có vài cảm nghĩ muốn xin trình bạch lên Trưởng lão:
HỎI 1: Con hiểu ý Trưởng lão muốn
xây dựng lại, muốn vực dậy một Phật giáo quá suy đồi. Trưởng lão đã dựng lên
cái đã ngã xuống, đốt sáng lên ngọn đèn đã tắt, phá dẹp áng mây mù tối đen mờ ảo.
Thưa Trưởng
lão, những điều con hiểu như vậy có đúng không?
ĐÁP: Những gì sư đã hiểu ý của Thầy
là đúng. Một Phật giáo hiện giờ là một Phật giáo tha lực chuyên cầu cúng tụng
niệm; một Phật giáo sống trong tưởng tri chứ không phải sống trong liễu tri; một
Phật giáo không còn có đường lối tu hành làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân
hồi; một Phật giáo suy thoái tận cùng đang chạy theo ngũ dục lạc thế gian. Tất
cả tu sĩ đều phạm giới, phá giới tan nát, không còn giữ một giới nào trọn vẹn.
Thật đau lòng cho những ai có tâm niệm thiết tha tìm cầu sự giải thoát ra khỏi
nhà sinh tử.
Đứng trước cảnh
nhà tan cửa nát của Phật giáo như vậy, ai nỡ tâm làm ngơ cho đành. Vì thế, Thầy
mới kê vai gánh vác mọi công việc quá nặng nhọc ngoài sức tưởng tượng của mọi
người. Với tâm nguyện chỉ ước mong cho chúng sinh hữu duyên có đầy đủ phước báo
để thọ hưởng những pháp bảo quý báu mà đức Phật đã để lại cho đời.
Một kho tàng
pháp bảo quý báu vô cùng, vô tận, thế mà mai một bị chôn vùi dưới lớp giáo pháp
mê tín, lạc hậu, dị đoan của tà giáo ngoại đạo đã hơn 2500 năm.
Chánh pháp của
Phật là một chân lý, là một nền đạo đức nhân bản – nhân quả của loài người,
giúp cho con người sống với nhau mà không làm khổ mình khổ người. Thế mà, con
người tuy có duyên nên được đức Phật ra đời trao cho chánh pháp, nhưng chưa đủ
để thọ hưởng phước báo ấy nên khiến cho tà giáo ngoại đạo phủ kín. Vì vậy,
không còn ai biết đường lối tu tập giải thoát như thế nào.
Bởi Phật
pháp là để cho người hữu duyên đầy đủ phước báu, chứ không thể để cho người thiếu
duyên, thiếu phước. Thế nên, chúng sinh thiếu duyên, thiếu phước, vì thế Phật
pháp mới bị chôn vùi hơn 2500 năm tính từ khi đức Phật ra đời cho đến nay.
Vào thế kỷ
này mới có người tu chứng đạo. Nhờ có người tu chứng đạo nên mới làm cho ánh
sáng chánh pháp của Phật soi rọi, đánh thức mọi người. Đấy cũng là lúc chúng
sinh đã đủ duyên, vì biết sống theo khoa học, chọn lối sống thực tế, cụ thể
hơn, xả bỏ xa lìa lối sống mê tín dị đoan lạc hậu, v.v.. không còn tin tưởng
vào thế giới siêu hình, nên chánh pháp của Phật mới dựng lại được. Nếu không có
con người sống thực tế khoa học mà cứ sống trong mê tín thì chánh pháp của Phật
vẫn phải tiếp tục chôn vùi.
—o0o—
HỎI 2: Nhưng con thắc mắc: Từ khi đức
Phật nhập Niết Bàn đến nay hơn 2500 năm, không có một vị nào tu chứng quả A La
Hán sao? Nếu có thì với trí tuệ Tam Minh, vị này phải thấy là Phật giáo suy đồi
và lên tiếng cảnh tỉnh sửa sai chứ?
ĐÁP: Sau khi tu chứng quả vô lậu Thầy
đã sử dụng Tam Minh quan sát về quá khứ xem có người nào tu chứng quả A La Hán,
nhưng hoàn toàn không thấy.
Một bằng chứng
hiển nhiên và cụ thể đó là không thấy có một cuốn kinh sách của một vị tổ sư
nào từ khi đức Phật ra đời cho đến nay dám nói cái sai của Phật giáo, toàn là a
dua theo kiểu kiến giải một chiều.
Xưa đức Phật
khi tu chứng, Ngài dõng dạc tuyên bố: “Ba mươi ba cõi trời là cõi tưởng
chứ không có cõi thật (tưởng tri chứ không phải liễu tri)”. Thời đó, từ
nhân dân già trẻ bé lớn cho chí vua quan đều tin tưởng có 33 cõi Trời thật. Lời
tuyên bố của đức Phật đã làm đảo lộn tư tưởng của con người lúc bấy giờ. Làm đảo
lộn tư tưởng của con người chỉ có những bậc tu chứng quả A La Hán mới dám cả
gan làm điều này. Trong lịch sử loài người từ đức Phật Thích Ca mãi đến hôm nay
mới có một người thứ hai ra đời dám cả gan xác định thế giới siêu hình không
có, không có linh hồn, không có quỷ ma, thần thánh, không có cõi địa ngục,
thiên đàng, v.v.. và thế giới siêu hình và tất cả chỉ là thế giới tưởng mà tưởng
uẩn của con người tạo ra.
Con người
không còn lạc hậu như trong thời đức Phật, vì hiện nay kiến thức con người có
trình độ khoa học, thích chọn sự hiểu biết thực tế. Vì thế, thời điểm đã đến
lúc dựng lại nền đạo đức nhân bản – nhân quả của Phật giáo và các pháp hành thực
tế cụ thể để giúp loài người ngăn chặn sự xung đột và chiến tranh, nhất là để
tu tập làm chủ sanh, già, bệnh, chết.
Những việc
làm trên đây đều do lòng từ bi thương xót chúng sanh của Ngài. Cho nên, không
có một vị nào tu chứng mà nhập Niết Bàn liền, đành lòng làm ngơ bỏ chúng sanh
đang đau khổ mà ra đi bao giờ. Dù biết rằng duyên phước chúng sanh chưa đủ
nhưng các Ngài cũng không nỡ tâm bỏ mặc. Chúng sinh có hưởng được pháp bảo hay
không là còn tùy duyên ở mỗi chúng sinh có phước hay thiếu phước.
Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni nói: “Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi, Ta chỉ là một người
hướng đạo viên mà thôi”, còn Thầy nói: “Các con có tin thì tu tập lợi ích cho
các con, chứ Thầy có lợi ích những gì?”.
—o0o—
HỎI 3: Suốt 2500 năm qua Phật giáo
cứ tiếp tục suy tàn và đến hôm nay thì mới có một vị tu chứng Tam Minh đứng lên
vạch trần sự tệ hại suy đồi của Phật giáo. Vậy là sao?
Chúng
sinh (cư sĩ và tu sĩ) trong mấy ngàn năm qua đã sống trong u mê mờ mịt, không lối
thoát, đui mù mà không biết lối đi. Trách nhiệm này do ai?
ĐÁP: Đừng hỏi tại sao mà hãy nhìn sự
sống của muôn vật trong vũ trụ bằng con mắt nhân quả thì biết rõ. Nếu chúng
sinh cứ gieo nhân mê tín, lạc hậu thì quả phải chịu gặt lấy sự tệ hại suy đồi của
Phật giáo, sự u mê mờ mịt, không lối thoát, đui mù không biết lối đi. Đó là
nhân nào quả nấy. Vì vậy đức Phật Thích Ca Mâu Ni có thương xót chúng sinh, có
để lại Bốn Chân Lý và một nền đạo đức nhân bản – nhân quả thì cũng âm thầm mai
một trong các bia đá của vua A Dục, có ai thèm ngó tới nó làm gì. Dù có lưu ý
ngó ngàng tới những bia kinh kia thì có lợi ích gì khi tâm hồn của họ còn mang
nặng những nhân mê tín dị đoan thì quả phải mù mờ, thì làm sao tin và hiểu nổi
những lời dạy của đức Phật rất khoa học và thực tế. Khi đọc những lời Phật dạy
làm sao họ chịu nổi những đòn sấm sét làm đảo lộn tư tưởng của loài người đang
tin vào thần thánh ma quỷ, một thế giới siêu hình.
Với tư tưởng
mê tín mà đọc kinh sách Phật thì kinh sách Phật cũng trở thành kinh sách mê
tín. Đó là theo quy luật nhân quả “Gieo nhân nào gặt quả nấy” chứ đừng hỏi
trách nhiệm này của ai. Trách nhiệm này của chúng sinh chứ đâu phải của bậc tu
chứng. Bậc tu chứng đã làm xong trách nhiệm bổn phận của mình, còn tin hay
không tin là trách nhiệm bổn phận của chúng sinh.
Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni đã để lại giáo pháp của mình cho chúng sinh đó là làm xong
trách nhiệm bổn phận của mình, còn tu hay không tu là trách nhiệm bổn phận của
chúng sinh. Cũng như hiện nay Thầy đã dựng lại chánh pháp của Phật là trách nhiệm
bổn phận của người tu chứng đã làm xong, còn tin hay không tin là trách nhiệm bổn
phận của chúng sinh, chứ không phải của người tu chứng.
Do điều này
mà chúng ta biết rất rõ thời gian 2500 năm không có người tu chứng quả A La
Hán, nên không có ai dám nói Phật giáo sai, Phật giáo mê tín khiến cho chúng
sinh càng mê mờ lại càng mê mờ hơn.
Những điều
đã nói trên đây là một bằng chứng xác định khoảng thời gian 2500 năm cho đến
nay không có người tu chứng quả A La Hán đúng theo pháp của đức Phật, chỉ có những
người tu theo thiền ngoại đạo nên chứng thiền tưởng, phần đông đều rối loạn thần
kinh lên đồng, nhập cốt, làm thầy pháp, thầy bùa, thầy phù thủy, thầy cúng, thầy
thuyết giảng, v.v..
—o0o—
HỎI 4: Những lời dạy của đức Phật
(gọi là kinh) còn để lại trong kinh sách rất khó hiểu mà Trưởng lão cũng đã xác
nhận: “Nếu không phải là người tu chứng thì không hiểu được”. Vậy:
– Ngày
xưa đức Phật muốn phát biểu hay giảng dạy một điều gì thì chỉ nói một vài câu
ngắn ngủi vậy thôi sao?
– Hay là
sau khi phát biểu vài câu ngắn ngủi (ý chánh) thì đức Phật cũng có một bài giảng,
giải nghĩa rõ ràng từng chi tiết như Thầy đã giảng lại lời Phật dạy trong các
kinh sách của Thầy?
ĐÁP: Đọc trong kinh Nikaya chúng ta
mới thấy đức Phật thuyết giảng rất kỹ từ lý thuyết đến thực hành rõ ràng và sau
khi thuyết pháp xong, đức Phật còn trùng tuyên lại chữ nghĩa giải thích rõ ràng
những từ khó hiểu rồi cô đọng lại bài thuyết giảng thành câu kinh PHÁP CÚ. Đức
Phật là một nhà sư phạm truyền đạt tư tưởng đạo đức rất cẩn thận kỹ lưỡng làm
cho mọi người tiếp thu một cách dễ dàng.
Tuy Phật giảng
rất kỹ nhưng đầu óc con người trong thời đức Phật cũng như con người hiện nay đều
đầy ắp những kiến giải mê tín, hư ảo, huyền bí trong thế giới siêu hình. Và những
sự hiểu biết mê tín này nó đã trở thành những thói quen, những phong tục tập
quán của một dân tộc, của một đất nước. Cho nên, dù pháp Phật có hay đến bậc
nào cũng không thể lọt vào tai họ được. Cùng đọc một câu kinh Nikaya mà người
mê tín hiểu theo kiểu mê tín; người tu thiền hiểu theo kiểu Thiền tông; người
tu Mật tông hiểu theo kiểu Mật tông; người tu theo pháp môn Tịnh độ hiểu theo
kiểu Tịnh độ. Chỉ có người tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết thì hiểu đúng lời
thuyết giảng của Phật. Tại vì, pháp của Phật dạy tu tập làm chủ sinh tử luân hồi
nên người tu tập làm chủ sinh tử luân hồi thì mới hiểu đúng nghĩa.
Phật giảng dạy
nghĩa lý rõ ràng nhưng mọi người hiểu nghĩa lý một cách khác nhau là do tâm niệm
của họ đầy ắp những kiến giải, tưởng giải của ngoại đạo, của Bà La Môn. Vì thế
nghĩa lý của kinh sách Phật lần lần hiểu ra thành kinh sách ngoại đạo, và cụ thể
nhất là kinh sách Phật Giáo Đại Thừa và Thiền Tông Trung Hoa.
Cho nên,
trách Phật thuyết giảng ngắn ngủi không nghĩa lý đầy đủ là sai. Phật bao giờ
cũng dạy nghĩa lý rõ ràng, còn ai hiểu hay không hiểu là vì tư tưởng của quý vị
quá đầy ắp những cái sai nên không thể quý vị hiểu đúng được.
Nhà dạy đạo
tu hành cũng giống như nhà sư phạm, hai đường đều cố gắng truyền đạt lại tư tưởng
văn hóa, đạo đức hay những phương pháp tu tập để những người nghe tiếp nhận
đúng nghĩa một cách dễ dàng.
Ở đây, chúng
ta nên nhắm vào người nghe, nếu người nghe đầy ắp những tư tưởng mê tín lạc hậu,
đầy ắp những tư tưởng giáo pháp của ngoại đạo thì sẽ hiểu không đúng lời dạy của
Phật. Đó là lỗi của người nghe.
Nếu Thầy
không nói mạnh, không chỉ thẳng giáo pháp của Đại Thừa và Thiền Tông sai thì Thầy
có giảng kinh sách Nikaya hay đến bậc nào thì họ cũng hiểu theo kiểu Đại Thừa.
Nhờ vạch cái sai của kinh sách Đại Thừa mà quý vị mới hiểu đúng nghĩa của Phật
dạy.
—o0o—
HỎI 5: Trường hợp 1: – Nếu Phật chỉ
nói vài câu ngắn ngủi vậy thôi thì chắc chắn không ai hiểu nổi, và như vậy mới
có tình trạng đưa Phật giáo đến chỗ suy đồi ngày nay, vì không hiểu được nghĩa
nên tu sai, không lối thoát thì dễ bị lý thuyết ngoại đạo (Bà la môn) xâm nhập,
hủy hoại.
ĐÁP: Như trên đã nói: Phật thuyết giảng
những bài pháp rất đầy đủ ý nghĩa không thiếu một nghĩa nào cả, chỉ người nghe
giống như ly nước đầy ắp những tư tưởng, phương pháp, phong tục mê tín ngoại đạo
nên không thể nào còn rót vào ly nước ấy được nữa. Cho nên, trường hợp thứ nhất
sư nói không đúng.
—o0o—
HỎI
5: Trường hợp
2: – Nếu Phật có giảng thì lời giảng, bài giảng đó ở đâu? Không còn thấy lưu lại
bất cứ một bài giảng nào của Phật cả, mà chỉ thấy những lời dạy ngắn ngủi quá
cô đọng với lời văn trúc trắc rất khó hiểu.
ĐÁP: Những bài giảng của Phật còn đầy
đủ trong tạng kinh Nikaya, nhưng vì là bản dịch ngôn ngữ văn hóa của người Ấn Độ,
nên người dịch không thể làm cách nào khác hơn được, chỉ chuyển ngữ qua ngôn ngữ
Việt Nam, đó cũng là may mắn lắm rồi. Nếu không chuyển ngữ thì tiếng Pali làm
sao chúng ta hiểu được. Từ chỗ chuyển ngữ này có một người nào phải am tường
ngôn ngữ văn hóa Việt Nam thì mới chuyển ngôn ngữ văn hóa Ấn Độ thành ngôn ngữ
văn hóa Việt Nam. Nhờ đó mà mọi người Việt Nam đọc kinh sách Phật mới dễ hiểu.
Tại sao quý vị đọc kinh Nikaya rất khó hiểu?
Vì kinh sách
Nikaya là văn hóa Ấn Độ. Trái lại khi chuyển nó ra thành văn hóa Việt Nam thì
quý vị dễ hiểu, không còn hiểu khó khăn gì cả. Có đúng như vậy không?
Cho nên, trường
hợp 2 không phải đức Phật dạy quá ngắn ngủi, cô đọng lời văn trúc trắc mà vì nó
là văn hóa Ấn Độ mới chuyển ngữ Việt Nam, chứ kinh Nikaya không phải là văn hóa
Việt Nam.
—o0o—
HỎI 6: Vậy chúng sinh nó đã u mê rồi
(nên mới tìm tu) mà lại không được sự hướng dẫn rõ ràng sáng sủa (như lời giảng
của đức Trưởng lão) mà chỉ đọc được những lời dạy cô đọng khó hiểu của Phật thì
làm sao tu được? Nó phải tu sai, hiểu sai, và một số lớn quay sang các lý thuyết
khác có vẻ dễ hơn (Bà la môn), một số khác thì chán quá (đọc không hiểu được)
thì bỏ tu luôn.
ĐÁP: Thầy nhờ tu chứng làm chủ sinh
tử luân hồi như Phật, nên hiểu lời dạy của Phật dễ dàng hơn những người khác.
Cho nên, vừa giảng dạy, vừa chuyển văn hóa Ấn Độ thành văn hóa Việt Nam nên khiến
cho mọi người Việt Nam thấy dễ hiểu, dễ tu tập, nhờ đó tu tập đâu có kết quả đó
rõ ràng. Khi mọi người đọc sách của Thầy xong rồi mới đọc lại kinh sách Nikaya
thì thấy dễ hiểu là vì những tư kiến trong đầu đã bị những lời nói thẳng của Thầy
gột rửa.
—o0o—
HỎI 7: Đức Phật với tuệ Tam Minh vượt
bậc, sao không lường được các hậu quả ghê gớm như hiện nay.
Phải chi
ngay từ đầu (khi Phật còn tại thế cũng như sau khi nhập diệt) Phật để lại những
bài giảng quý giá như của Trưởng lão thì chúng sinh và Phật giáo ngày nay đâu đến
nỗi tệ hại như vậy?
ĐÁP: Bây giờ sư không còn trách Phật
nữa phải không? Phật là người Ấn Độ, nên sử dụng văn hóa ngôn ngữ Ấn Độ mà giảng
dạy cho người Ấn Độ, nên số người Ấn Độ theo đạo Phật 1250 vị Tỳ kheo. Tuy vậy
đầu óc họ lúc bấy giờ vẫn đầy ắp những tà kiến của Lục Sư ngoại đạo.
Sư còn nhớ
không? Sau khi tu chứng, đức Phật đã dùng trí tuệ Tam Minh quan sát và bảo: “Chúng
sinh khó độ”. Nhưng người tu chứng không nỡ bỏ chúng sinh mà vào Niết
Bàn, vì thế Ngài làm hết bổn phận và trách nhiệm của người tu chứng là để lại tạng
kinh Nikaya quá đầy đủ, nhưng người sau kết tập kinh sách đã làm “Tam sao thất
bổn”, lại thêm bớt quá nhiều khiến cho kinh sách gốc của Phật bị lệch lạc và
khó hiểu, chứ không phải do Phật, mà do nhân quả của chúng sinh như trên đã dạy:
“Tạo nhân nào thì phải gặt quả nấy”.
—o0o—
HỎI
8: Đến đây
con cảm nhận được trách nhiệm của người đi rao giảng thật là lớn lao quá, giết
người hay cứu sống người, vùi lấp bao nhiêu thế hệ chúng sinh hay làm rạng rỡ
chúng sinh giải thoát cũng ở trong tay các vị này.
Tài hèn,
sức yếu, con cũng nguyện ráng cố gắng hết sức mình vươn lên để sau này may ra đền
ơn Trưởng lão và nối tiếp ý nguyện của Trưởng lão.
Xin Trưởng
lão ban phúc lành cho con, con nguyện ráng tinh tấn.
Kính cẩn,
Con,
Thích Minh Hưng
ĐÁP: Đúng vậy, người thuyết giảng mà
tu hành chưa chứng đạo là giết người bằng miệng lưỡi, không phải giết một người
mà giết nhiều người và nhiều thế hệ. Bằng chứng rất cụ thể hiện nay nhiều người
ham danh nên đi học làm giảng sư, cuối cùng mình chẳng tu hành ra cái gì chỉ dối
gạt người bằng miệng lưỡi. Thật là đáng trách thay!
(Trích
sách Hỏi đáp oai nghi chánh hạnh, NXB Tôn Giáo – 2011, trang 61-75)

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét