18-LỜI DẠY CẶN KẼ/ 4
4- Trí tuệ
vô học là gì? Trí tuệ vô học là ý thức hiểu biết không cần vay mượn những sự hiểu
biết của người khác như học tập trong sách vở, kinh tạng, v.v.. Nói trí tuệ vô
học chứ kỳ thật trí tuệ đó thường bắt chước sự hiểu biết của người khác.
Ví dụ: một đứa
bé từ lúc sinh ra cho đến lớn khôn bắt đầu đều phải tập trườn, bò, tập đi, tập
ăn, tập nói, tập hiểu biết, v.v.. Đó là đều vay mượn của người khác cả. Những
người tuy không học thức nhưng vẫn là những người có trí tuệ vay mượn, vay mượn
ít, còn những người có học thức là những người vay mượn nhiều.
Kinh sách Phật
giáo Nguyên Thủy xác định trí tuệ vô học là chỉ cho sự hiểu biết của những người
phàm phu ngu si, dốt nát, vô học, luôn sống trong vô minh với ác pháp, thường
làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.
Trí tuệ vô học
chính là tri kiến của ý thức. Tri kiến của ý thức bị hạn cuộc trong không gian
và thời gian nên sự hiểu biết không thấu suốt vũ trụ và vạn vật như thật nên
thường sống trong sự hiểu biết của tưởng. Vì thế, kinh sách của loài người để lại
như rừng, như biển, nhưng phần nhiều chỉ là nhai lại những ý tưởng tượng của
nhau bằng những ảo ảnh, trừu tượng, mơ hồ, v.v.. nên thiếu giá trị chân thật,
không thực tế của kiếp sống con người. Còn lại, một vài tư tưởng thực tế có giá
trị đạo đức cao đẹp của loài người là do ý thức của họ quan sát thấu triệt được
nền đạo đức môi trường sống mà biên soạn ra. Những tư tưởng thực tế có giá trị
đạo đức cao đẹp ấy khi đưa ra và áp dụng vào cuộc sống của loài người thì bị
các giai cấp thống trị bóp méo. Bởi vậy, kinh sách thì nhiều, nhưng tìm một cuốn
kinh hay, một cuốn sách có giá trị đạo đức chân thật thì không phải dễ tìm. Phải
không các bạn?
Theo kinh
sách phát triển Đại Thừa và Thiền Đông Độ thì trí tuệ vô học tức là trí tuệ vô
sư. Trí tuệ vô sư do tu thiền định ức chế tâm mà có. Nhưng không ngờ trí tuệ vô
sư là trí tuệ tưởng, cho nên kinh sách Đại Thừa và những công án Thiền Tông đều
do trí tuệ tưởng sản xuất, vì thế thiếu chân thật và chính xác, thường đưa dắt
con người vào thế giới ảo tưởng.
Trí tuệ vô
sư là trí tuệ không có thầy dạy, trí tuệ do tự mình hiểu biết. Những công án của
Thiền Tông ra đời là nhằm mục đích trắc nghiệm trí vô sư của đệ tử, nhưng kỳ thực
đó là một lối hướng dẫn đệ tử triển khai tưởng tuệ bằng một công thức có bài bản
của hệ phái này. Cho nên, các hệ phái này, Đại Thừa và Thiền Tông chưa có đem lại
lợi ích thiết thực cho cuộc sống con người, mà chỉ đem lại một cuộc sống vào
trong tinh thần ảo tưởng (Phật Tánh).
5- Trí tuệ hữu
học là trí tuệ do học tập và tu hành. Trí tuệ hữu học là ý thức được huân tu,
huân học có thầy dạy, có kinh sách, có pháp môn tu hành, có bạn đồng tu, có thiện
tri thức hướng dẫn.
Trí tuệ hữu
học được hướng dẫn đúng theo giáo pháp Nguyên Thủy của Phật giáo thì trí tuệ ấy
trở thành một sự hiểu biết sống động, có đạo đức nhân bản – nhân quả, không làm
khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Trí tuệ hữu học ấy còn gọi là tri
kiến giải thoát của Phật giáo. Trí tuệ ấy do tu tập Định Vô Lậu mà phát triển.
Định Vô Lậu còn được xem là tri kiến giải thoát. Hay nói một cách khác là trí
tuệ hữu học.
6- Trí tuệ
thiện là sự hiểu biết về thiện pháp, trí tuệ không làm khổ mình, khổ người, khổ
chúng sanh; trí tuệ thiện là tâm ly dục ly ác pháp, là tâm bất động trước các
ác pháp và các cảm thọ, là tâm thanh thản, an lạc và vô sự; trí tuệ thiện là
chánh tư duy, là Định Vô Lậu; trí tuệ thiện là giới luật, là Phạm hạnh của người
tu sĩ Phật giáo.
7- Trí tuệ
ác là sự hiểu biết về ác pháp; trí tuệ ác làm khổ mình, khổ người và khổ chúng
sanh; trí tuệ ác là tâm tham, sân, si, mạn, nghi, v.v.. Trí tuệ ác là tâm dao động
trước các pháp ác và các cảm thọ; trí tuệ ác là tâm không ly dục ly ác pháp;
trí tuệ ác là trí tuệ của những người phàm phu tục tử, hèn nhát, tham sống, sợ
chết, tham danh, đắm lợi, vào luồn ra cúi, nịnh bợ, a dua, v.v..
8- Đức tuệ
là trí tuệ đạo đức, trí tuệ biết thương mình thương người; đức tuệ là tâm từ của
Tứ Vô Lượng Tâm.
9- Hạnh tuệ
là trí tuệ đức hạnh, trí tuệ biến ra hành động không làm khổ mình khổ người và
khổ tất cả chúng sanh; Hạnh tuệ là tâm bi của Tứ Vô Lượng Tâm.
10- Trực tuệ
là trí tuệ ngay thẳng, dám ăn dám nói những cái sai của người khác. Trong thời
phong kiến, các quan Gián Nghi Đại Phu là những vị quan can ngăn nhà vua. Những
người làm chức vụ này, phải thẳng thắn gan dạ dám nói những điều nhà vua làm
sai. Những người dám ăn dám nói như vậy là những người có Trực tuệ.
Về tôn giáo,
ngày xưa Đức Thích Ca Mâu Ni dám nói thẳng cái sai trong giáo lý của Bà La Môn
và dựng lại những cái đúng, cái thiện giúp cho loài người thoát ra khỏi tinh thần
tư tưởng mê tín lạc hậu. Ngài cũng còn có công xây dựng nền đạo đức nhân bản –
nhân quả cho loài người, mặc dù chưa được triển khai trọn vẹn và đầy đủ. Ngài để
lại cho loài người bốn chân lý bất di bất dịch thực tế và cụ thể mà muôn đời
sau không ai thay đổi được, dù một chút xíu như hạt bụi. Ngài dám nói thẳng cái
sai trong giáo lý của Bà La Môn là vì tâm đại từ bi đối với chúng sanh, đối với
loài người. Cũng vì thế, mà trên đường hành đạo Ngài phải chịu nhiều gian nan,
vất vả. Người ta mắng chửi, vu oan Ngài với phụ nữ, xô đá, cho voi say giết
Ngài. Ngày nay, giáo lý Ngài còn lưu lại cho hậu thế là một công ơn rất lớn của
Ngài.
Hôm nay, vì
lòng thương tưởng tín đồ Phật giáo, nên chúng tôi chẳng ngại hiểm nguy trước một
thế lực vĩ đại so với mình như hạt cát giữa sa mạc. Dám nói thẳng sự thật, những
cái sai của kinh sách phát triển Đại Thừa, Thiền Đông Độ và những cái sai của
các hệ phái khác nhau trong Phật giáo hiện thời, để giúp cho tín đồ Phật giáo
sáng suốt nhận định đâu là Chánh pháp, đâu là Tà pháp, đâu là Chánh tín, đâu là
Mê tín, đâu là Chánh kiến, đâu là Tà kiến; đâu là Chánh tư duy, đâu là Tà tư
duy. Và như vậy, để khai hoang trục lộ Bát Chánh Đạo, giúp cho mọi người tu
theo Phật giáo không còn đi sai đường lạc lối nữa.
Đức Phật
ngày xưa và ngày nay chúng tôi nói thẳng, chỉ thẳng, v.v… Đó là Trực tuệ.
11- Thắng tuệ
là trí tuệ chiến thắng mọi ác pháp. Ví dụ: Người ta hay mạ nhục, chửi mắng
mình, mà mình nghe, thấy, biết rõ ràng, nhưng tâm không hề có chút giận hờn.
Nghe, thấy, biết mà không khởi tâm giận hờn, phiền não, đó là Thắng tuệ. Thắng
tuệ tức là tri kiến giải thoát do sự tu tập Định Vô Lậu mà có.
12- Liễu tuệ
là trí tuệ thấy, hiểu, biết mọi pháp như thật. Liễu tuệ còn gọi là trí tuệ Tam
Minh.
13- Liệt tuệ là trí tuệ yếu đuối không hoạt động, không làm việc, không chịu tư duy, suy nghĩ, trí tuệ mệt mỏi, lười biếng, uể oải, v.v.. Liệt tuệ là một trí tuệ không có sức đề kháng, là một trí tuệ nhu nhược hèn nhát, yếu mềm; liệt tuệ là trí tuệ tiêu cực, yếm thế đầu hàng mọi ác pháp.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét