1028-MÙA XUÂN VĨNH CỬU: 8- MÙA XUÂN THUẦN THIỆN LÀ MÙA XUÂN VĨNH CỬU
(51:54) Cho
nên, muốn chúc thọ Thầy, mừng tuổi Phật là phải ở chỗ nỗ lực, kiên trì, bền
chí, tận lực làm tất cả các pháp thiện, và diệt trừ chấm dứt các pháp ác, thì
đây quý thầy mới bắt đầu dựng lại một mùa xuân vĩnh cửu.
Một mùa xuân
không có hoa mai, không có bánh trái cây, không có thịt cá, không có thực phẩm
ngon ngọt, cao lương mỹ vị, không có pháo, không có bánh chưng xanh và cũng
không có cây nêu, thì đó mới là một mùa xuân vĩnh cửu, một mùa xuân hạnh phúc
và an lạc cho muôn loài.
Một mùa xuân
vĩnh cửu là một mùa xuân thuần thiện, một mùa xuân không có chết chóc và không
có đau khổ. Đó là một mùa xuân mà các đệ tử của Phật gọi là mùa xuân Di Lặc. Từ
lâu người ta đã mạo danh mùa xuân Di Lặc là mùa xuân thế tục, cái điều đó làm
cho đau khổ Phật pháp nhiều hơn.
Ở đây quý thầy
cần phải hiểu rõ thêm chỗ này, Thầy vừa mới dạy ở trên. Chỉ khi nào quý thầy sống
thuần thiện thì đó mới bắt đầu dựng lại một mùa xuân vĩnh cửu.
Tại sao mới
bắt đầu? Như quý thầy đã biết và đã học giáo lý của đạo Phật thì đạo Phật có ba
giai đoạn tu hành:
(53:33) Một:
Phải sống đúng giới luật của Phật, tức là sống đúng, sống thuần thiện, sống Phạm
Hạnh của người tu sĩ đạo Phật. Trong oai nghi tế hạnh phải thể hiện đầy đủ, ăn,
uống, ngủ, nghỉ phải thể hiện đúng Phạm Hạnh. Đó là giai đoạn ly dục.
Hai: Phải nhập
tám thứ thiền định đó là: Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, Không Vô Biên Xứ Định,
Thức Vô Biên Xứ Định, Vô Sở Hữu Xứ Định, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định và Diệt
Thọ Tưởng Định. Đó là giai đoạn đoạn dục.
Ba: Phải thể
hiện được Tam Minh:
1- Túc Mạng
Minh
2- Hai Tha
Tâm Minh (Thiên Nhãn Minh)
3- Ba Lậu Tận
Minh
Đây là giai
đoạn tuệ giải thoát.
Ở đây, quý
thầy phải nhận rõ, giai đoạn thứ nhất để chúng ta bắt đầu xây dựng một mùa xuân
vĩnh cửu. Nếu không rõ giai đoạn này chúng ta sẽ tu hành lầm lạc đường lối của
đạo Phật. Hầu hết, hiện giờ người ta tu hành theo đạo Phật lạc lối là ngay từ
lúc ban đầu, ngay từ nơi giới luật.
Bởi vậy, Đức
Phật còn dạy chúng ta để nhận xét được ba thứ thọ:
1- Thọ lạc.
2- Thọ khổ.
3- Không thọ
lạc, không thọ khổ.
Ba thứ thọ
này là một tâm của kẻ phàm phu chưa có tu hành, chưa có giữ giới luật gì hết.
Trong thời Đức
Phật còn tại thế có một lục sư ngoại đạo cho không thọ lạc, không thọ khổ là Niết
Bàn, là cứu cánh. Trong thời đại các vị tổ sư bên Trung Hoa cũng nhận lấy sự
không thọ lạc, không thọ khổ này cho là đạo, là sự giải thoát, là Niết Bàn.
“Bình thường
tâm thị đạo” hoặc “không ngại là đạo” đó là hai câu nói của hai vị tổ sư Thiền
Đông Độ danh tiếng nhất của Trung Hoa. Hai câu này cũng giống như một lục sư
ngoại đạo trong thời Đức Phật, cũng cho đó là cứu cánh, là sự giải thoát của
con người, là Niết Bàn.
Tâm bình thường
là tâm không lạc, không khổ thì đây không phải là sự giải thoát, là đạo, là Niết
Bàn mà là một tâm phàm phu không lạc, không khổ. Tâm không lạc, không khổ là
tâm không chướng ngại bởi lạc, bởi khổ, thì chỗ này cũng không phải là cứu cánh
Niết Bàn.
Bởi vậy, tỳ
kheo ni Dhammadinna đã trả lời cư sĩ Visakha:
- Thưa ni sư, bất khổ, bất lạc thọ
lấy gì làm tương đương?
Ni sư trả lời:
˗ Này hiền
giả Visakha! Bất khổ, bất lạc thọ lấy vô minh làm tương đương.
Chữ vô minh ở
đây chỉ cho một tâm còn phàm phu, vì tâm phàm phu là tâm vô minh, mà tâm vô
minh thì còn tham đắm trong ngũ dục lạc, không thể nào gọi là tâm giải thoát được,
là đạo được.
Đấy, quý thầy
đã hiểu rõ được chỗ này chớ? Đây, quý thầy sẽ nghe tiếp tục:
Ni sư trả lời
tiếp tục câu hỏi của Visakha:
˗ Vô minh lấy
gì làm tương đương?
˗ Vô minh lấy
minh làm tương đương.
Này quý thầy!
Ở đây, minh
không phải là thứ trí tuệ tổng hợp do học hỏi, do giải ngộ, do tưởng giải, mà
minh ở đây là thứ trí tuệ giải thoát. Trí tuệ giải thoát là trí tuệ Tam Minh.
(58:18) Khi
chúng ta tu hành diệt tâm lậu hoặc đoạn dứt tâm ái dục, thì tuệ giải thoát mới
xuất hiện, đó là tâm Tam Minh. Vậy minh ở đây phải biết là tâm Tam minh chớ
không phải là thứ trí tuệ phàm phu lanh lợi xảo ngôn.
Vậy quý thầy
nghe tiếp ni sư Dhammadinna trả lời cư sĩ Visakha:
˗ Thưa ni
sư: Minh lấy gì làm tương đương?
˗ Minh lấy
giải thoát làm tương đương.
Đến đây, Thầy
xin nhắc lại một lần nữa, quý thầy đã rõ tuệ giải thoát là minh, mà minh ở đây
là Tam Minh, không phải là thứ trí tuệ phàm phu tổng hợp, vì Tam Minh phải từ
thiền định xuất hiện. Mà thiền định là sự đoạn diệt tâm ái dục, mà ái dục là
nguồn gốc khổ đau của chúng sanh. Vậy muốn có tâm giải thoát là phải đoạn dứt
ái dục.
Bây giờ quý
vị nghe tiếp giữa ni sư Dhammadinna và cư sĩ Visakha hỏi đáp:
˗ Thưa ni
sư, giải thoát lấy gì làm tương đương.
˗ Này
Visakha, giải thoát lấy Niết Bàn làm tương đương.
Vậy tâm giải
thoát là tâm phải có đầy đủ Tam Minh, tâm giải thoát phải là tâm đoạn dứt ái dục,
tâm giải thoát là tâm Niết Bàn không phải còn là thứ tâm phàm phu tục tử không
thọ lạc, không thọ khổ.
Vậy “bình
thường tâm thị đạo” và “không ngại là đạo” của thiền sư Đông Độ chỉ tương đương
với tâm đang ly dục của đạo Phật mà thôi. Nghĩa là đạo của Thiền Đông Độ chỉ ở
giai đoạn tu tập giới luật của đạo Phật, là giai đoạn ly dục, chưa phải là thiền
định, chưa phải là cứu cánh.
Tâm không lạc,
không khổ thọ là tâm dễ lạc vào định tưởng, mà đã lạc vào định tưởng thì không
bao giờ đoạn dứt được tâm ái dục. Không đoạn dứt được tâm ái dục mà cứ tiếp tục
tu trong định tưởng như vậy thì sẽ rơi vào thiền định của ngoại đạo, từ đó nuôi
lớn thêm ái, thêm ngã, thêm danh, thêm lợi.
Theo đạo Phật,
tâm giải thoát là tâm đoạn lìa ái dục, tâm Tam Minh, tâm Niết Bàn, là tâm mùa
xuân vĩnh cửu, là mùa xuân hạnh phúc của muôn loài.
Vậy ở đây
quý thầy đã hiểu rõ mùa xuân vĩnh cửu là mùa xuân ở trong tâm nào rồi, phải
không?
Hôm nay, là
cái ngày đầu xuân, là cái ngày Tết, ngày mà những đứa con Phật phải trân trọng
ngồi lại trong tư thế kiết già để giữ tâm thiền định, để lắng lòng mình trong sạch,
để quán xét các thiện pháp, để tăng trưởng và thực hiện các thiện pháp, để giữ
gìn và bảo vệ các thiện pháp, để chấm dứt và loại trừ các ác pháp. Thân, khẩu ý
phải thanh tịnh, phải thuần thiện.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét